Thứ Hai, 5 tháng 3, 2012

Hóa học


 Việt Nam cần lưu ý nhiều hơn đến những thuốc “ bổ sung - bổ dưỡng”… từ Trung Quốc, Đông Âu, Tây phương , có thể  là thành quả rẽ tiền:
   Tiến bộ nghịch lý, bất hợp pháp ở ngành hóa học bóng tối làm steroids, ma túy …
                                           G S Tôn Thất Trình
Ma túy Krokodil ăn thịt người nghiện  

    Thuốc phiện ma túy  Krokodil hay desomorphine tổng hợp dễ dàng
  
Chiếu theo tài liệu đăng tải ở Nguyệt san Khám Phá , Hoa Kỳ số tháng 3 năm 2012, thì nay các la bô  chế “thuốc” steroids,  ma túy – narcotics, psychedelics đang lan tràn  tự do kín , bí mật khắp thế giới .Thí dụ điễn hình nguyệt san nêu ra là khủng hỏang  thuốc ma túy chế  tạo tại gia – home brewed drugs ở Nga. Meth tinh thể - crystal meth  ở các la bô kích thước nhỏ  khắp nước  Hoa Kỳ đang gây ra tổn thất lý học to lớn , làm thối  hết lợi   và hư hết răng các người sử dụng.  

Krokodil làm thố da
Thế nhưng ảnh hưởng xấu xa của meth không thấm thía vào đâu so với  thuốc phiện – opiate  chế tạo tại gia, chích gân máu – intraveinous,  nay ngập đầy nước Nga. Thuốc phiện này có tên Nga là Krokodil  đến từ một dấu hiệu sử dụng rùng rợn : mô  thân thể  quanh nơi chích thuốc chết đi và thành qủa miếng da trở nên xám xanh  và trổ vãy như trên da cá sấu vậy đó . Chất desomorphine, như tên gọi Krokodil trước đó, có thể nung nấu tại nhà, căn cứ trên một công thức pha chế trên đường dây – on line , chỉ cần có sẳn các thành phần dự liệu.  Codeine, thành phần tích cực    được bán ngòai kệ hàng, khắp nước Nga ở các thuốc trị ho và diệt đau đớn – pain killers . Các thành phần khác là những món có ở gia thất gồm chất sơn làm lỏang, iodine  và lân – phosphorus đỏ, cạo từ các túi diêm giấy – matchbook. Krokodil là biện pháp cuối cùng cho ai không mua được bạch phiến – heroin hay các thuốc ma túy chích gân khác, theo lời nhà khảo cứu y tế công cọng người Nga,  Kirill  Danishshevskiy. Giá nó chỉ 1/10 bạch phiến , nhưng hiệu quả ngắn hơn; người nghiện phải  tiêm  thuốc 7- 10 lần một ngày mới qua khỏi cơn nghiện. Dù rằng thống kê rất hiếm, Nga, một quốc gia 140 triệu dân, có thể có đến 1 triệu người  dùng krokodil, theo ước tính của Anya Sarang, một nhà đề xướng y tế công cộng, đang họat động cùng các tay sử dụng thuốc ở thủ đô Moscow.  Độc hại của thuốc có ảnh hưởng tàn nhẫn hơn kiểu da cá sấu nữa đó. Những vùng mô – tissue có thể thối đi, có khi đến tận xương. Trong những ca nghiêm trọng, xương cũng thối.Tay nghiện thường bị bó buộc cưa chân tay và dễ nhiểm bệnh thứ cấp tỉ như ho lao. Sarang cho biết là  nhiều tay sử dụng  bị mắc vào vòng lao lung này đã phải chế thuốc và dùng thuốc; họ không đi khám bác sĩ, và nếu vài người nghiện có đi khám bác sĩ đi nữa, các bệnh viện Nga không trang bị đủ để giúp họ. Đời sống các tay nghiện krokodil, sau khi họ dùng thuốc chỉ  kéo dài 2 năm thôi.
    
        Hiện phỏng ước có đến 3 triệu dân Hoa Kỳ  sử dụng bất hợp pháp các steroids đồng hóa để thân thể cơ bắp to lớn hơn
  
Steroids 
Không một ai mơ tưởng lớn thêm lên và chỉ tìm ra một công ăn việc làm lương bổng thấp tại bang New Jersey,Hoa Kỳ chế tạo hóa chất  dùng làm thuốc gội đầu – shampookeo tóc – hair gel. Lui lại về năm 1991, khi  một cán sự la bô  24 tuổi, Patrick Arnold,  đứng một mình trong phòng  khuấy trộn  những tác nhân  làm đặc quẹo trong các vạc - vats chất dính – goo, còn rất nhiều thì giờ để phản chiếu  những xoắn vặn số mệnh đã buộc tội hắn  phải họat động ở một nơi “ không  bao giờ có tí gì đáng ưa thích xảy ra” trong một công việc “ không đi tới đâu cả thảy”. Phải mất hàng tháng mới  tìm được cách thóat ra, nhưng lối mòn vẫn luôn luôn hiện điện  trước mặt hắn.  Arnold là một kẻ  say mê  nâng ( cử)  tạ - weight lifter , khổ sở vì thân thể trung bình  từ lâu không còn cộng tác với hắn  trong cố gắng  muốn trở thành lực lưỡng hơn, to lớn hơn. Ngay cả như thế, mỗi đêm sau khi làm việc, hắn tiến tới  một trong số nhiều sân tập thể dục, nơi đây hắn bơm thêm sắt - iron  và thảo luận cùng các tay lực sỉ cử tạ. Câu chuyện thường xoay quanh vấn đề  steroids đồng  hóa – anabolicArnold đã  học  môn chánh là hóa học tại Viện đại học  New Haven và bàn cải trong phòng cử tạ đã làm hắn suy tư.

Patrick Arnold 
       Một buổi trưa sau khi bắt đầu các phản ứng trong ngày khi làm việc, Arnold  bước xuống hành lang  đến thư viện hóa học  trong tầng lầu la bô hắn và ngước đầu nhìn các cấu tạo phân tử  các steroids, nói đến trong các  tuần báo  bắp thịt hắn mua.  Steroids đồng hóa, chủ yếu là testosterone tổng hợp vừa mới được tuyên bố là những chất kiểm sóat, cho nên  có rất nhiều thông tin về chúng. Rất mau lẹ thông tin đập mạnh hắn:  “  tôi ghét công việc tôi đang làm, tôi ngồi ở đây, tôi đã có một la bô – tôi có thể tự mình chế tạo ra  một vài điều này. Sẽ không một ai biết  là tôi đang làm gì” .  Arnold thêm rằng các tiền thân của steroid hắn cần cho  các hóa chất la bô, có sẳn ở danh sách thường lệ hắn đặt mua xuyên qua công ty, và không ai khôn ngoan hơn.
      Tiến bộ chậm rì lúc đầu tiên. Thường khi hắn đặt mục tiêu làm ra một sản phẩm hắn biết  phải tạo ra một  cơ cấu tinh thể, nhưng cuối cùng lại là một chất dầu  dính trong chai lọ.  Theo Arnold đó là một dấu hiệu “cẩn trọng”  chớp sáng, một chỉ dẫn  là những dơ bẩn tiềm năng độc hại  và các chất làm phản ứng- reactants còn sót lại đã sai lầm, không phân chia ra khỏi  chất pha chế – brew. Nhưng sau một thời gian hắn thành chuyên viên  dùng các chất hòa tan để rửa sạch các chất dơ bẩn, các chất làm phản ứng và các hợp chất hắn làm ra càng ngày càng trở nên trong suốt như nhũng tinh thể nước đá, chứng tỏ là  độ thuần túy rất cao. Càng chủ trì, Arnold càng tăng thêm thích thú trí tuệ.  Rồi hắn dành 10 giờ một tuần lễ  thăm viếng các thư viện, lược qua các môn bài tăm tối  và các tạp chí khoa học tìm kiếm những hợp chất  có cơ cấu phân tử đáng  thám hiểm thêm.  Cuối cùng, hắn  dừng lại ở một công thức hắn tìm thấy  ở một tạp chí  Thụy Sĩ, tên là  Helvetica  Chimica Acta  thời 1930, hắn dịch bằng một tự điển  Anh - Đức. Nó mô tả chi tiết  tổng hợp mestalonone , một steroid đồng hóa đầu tiên trên thế giới. Arnold hình dung là hắn sẽ làm một thử nghiệm tốt lần thứ nhất, vì ảnh hưởng của steroid này đã được biết rỏ rộng rãi, khác hẳn vài hợp chất xa lạ hắn chế tạo ra.
     Ở la bô , Arnold quan sát  các sản phẩm phụ xanh xanh  rửa chảy và các tinh thể hình thành.  Khi quang phổ kế khối lượng – mass spectrometer  trình bày một dáng  giống y hệt dáng hắn đang tìm kiếm, hắn làm hòa tan  hợp chất trong propylene glycol, một chất làm hòa tan không mùi, biến  mestanolone thành chất lỏng. Hắn làm ngay cách ăn uống  một ngày  75 milligram chất này. Hắn nói:  trong chất này không có thứ gì làm tôi tổn hại cả. Nhưng tôi rất cẩn thận. Tôi giữ cho nồng lượng luôn luôn luôn ở mức phải chăng. Tôi không dùng nó hơn vài tuần lễ.
    Vài mức độ  không chắc chắn  sánh ngang hàng nhau  như thế trên thế giới về cách thức  hóa học tự mình làm lấy- do –it - yourself ( DIY )chemistry và một số  người theo thuật luyện đan  kinh doanh nổ bùng lên từ những năm Arnold  nuốt  vào họng những    pha trộn hóa học đầu tiên và  tiếp tục trở thành một trong những nhà hóa học ngầm  danh vang ở Hoa Kỳ.  Đây là một thủ tục đã có từ lâu: dưới hình thức này hay hình thức khác, vài nhà hóa học đã họat động ngòai vòng pháp luật, trước khi phát minh ra  đèn đốt – burner Bunsen. Nhưng Internet đã sinh ra một thời đại hòang kim hóa học bồn tắm.  Trước đây chưa bao giờ dễ dàng  thu nhận được những chỉ dẫn, phân tử tiền chất  và những khả năng chế tạo sản xuất  những hợp chất lạ lùng xa xôi, không điều hòa, kích thước đại trà hay in ra  nhũng công thức thô hào  cho các thuốc men  bạn tự làm lấy. Thành quả, một thế hệ mới doanh nhân  hiểu biết Internet đã thả lỏng một lọat dàn trải  mỗi ngày mỗi đổi thay những  sản phẩm tại các chợ tạp hóa  bán thuốc trong bóng tối, ở không gian  điều khiển học – cyberspace, trong khi  các ác ôn ma túy  sẳn sàng nung nấu  ra những hợp chất đơn giản  ở phòng bếp nhà chúng.
    Những chất DIY làm thành một rặng dài kiểm kê các thuốc sinh cường  biểu diễn – performance enhancing drugs  các kẻ bậy bạ( bừa bải ) ở sân thể dục  đang cố làm thân thể to bự lên, tiêu thụ từ một lựa chọn  các hợp chất tác động đến trí tuệ cư xữ  các thiếu niên nhảy nhót thử mẩu, đến những ma túy lõi cứng các biến đổi tổng hợp  các kẻ nghiện ngập ma túy ngấu nghiến. Các người tiêu thụ thí nghiệm những pha trộn hóa học không được điều hòa này  cư trú tại những thế giới  khác biệt nhau : sân thể dục, kẻ thèm khát điên cuồng và những gia thất tạo kết quả một thời gian ngắn nhất, nhưng các thuốc ma túy thường lại được  sản xuất với các tiền chất  mua tại cùng nơi  và phát sinh từ những công thức mua bán nhiều cùng  những vị trí web – websites.  Chúng cũng mang theo vài hiểm nguy  như thế .
     Mức khéo léo và  thái độ  cũa những nhà hóa học bồn tắm  thay đổi rộng lớn,  không những gồm các stuđiô ( xưởng nhỏ ) lọai hướng về khảo cứu  như Arnold,  cũng như  của những kẻ bất chấp nhẫn tâm  và kẻ ngu si  tội đồ. Danh sách  những hợp chất  chế tạo ở nhà có thể sai lạc thật là dài dòng. Một thí dụ ghê rỡn  đến từ  những thám hiểm hóa chất do Internet hướng dẫn của những người tham vọng dùng methamphetamine. Trong cố tâm  tổng hợp  meth tinh thể, các tay DIY này đã gây ra một bừa bải  nổ tung các xe móoc công viên  và thường  thiếu sắc sảo  sản xuất ra  thuốc ma túy  phủ đầy các chất độc hại như acid hydroiodic.  Cách tốt nhất lấy đi những phó sản độc hại này là rữa sạch  thuốc trong rượu cồn – alcohol  sử dụng một  phểu Buchner, một thiết bị la bô làm chân không đặc thù. Thế nhưng đa số nhà hóa học phòng bếp  lại chưa bao giờ nghe nói đến nó cả.  Khi  giai đọan thuần nhất  hóa cuối cùng này bị bỏ qua, các chất độc tố sẽ  ăn mòn hết lợi, răng và màng bên trong má người dùng: thành quả là  điều kiện không còn răng, hổng lỗ hết,  có tên là “ mồm- miệng meth mouth” .
    Khuynh hướng đang tiến triễn mau lẹ là một hạng hợp chất phức tạp các nhà hóa học đã được huấn luyên như Patrich Arnold đang cố gắng tìm kiếm những steroids lạ lùng hay những hợp chất ma túy mới mẽ.  Chỉ trong 2 năm qua, sử dụng các chất kích thích   tổng hợp  sản xuất ra  các chất tương tự meth cao độ, bán ra thị trường dưới tên “ muối  tắm – bath salts”  bùng nổ mạnh mẽ. Trong năm 2010, 41 chất ma túy – psychoactive substances  mới đã được các quốc gia Âu Châu báo cáo, nghĩa là gấp 3 lần số lượng xác nhận năm 2008, chiếu theo báo cáo  của Trung tâm Theo dõi  Ma túy và Nghiện Ma túy Âu châu – European Monitoring Centre  for Drugs and  Drug Addiction. Hoa Kỳ không có thống kê  tương tự nhưng những chất ma túy này cũng cuối cùng hiện diện ở Hoa Kỳ.  Những chất mới  gồm những dẫn xuất – derivatives  của PCP và cocaine – côcain cũng như các dạng mới của cần sa – cannabinoids tổng hợp, những hợp chất tương tự  tetrahydrocannabinol, thành phần tích cực của cần sa – marijuana .
  Rất nhiều các chất ma túy này là những hợp chất ít ai biết tới, chọn lọc  từ những tạp chí khảo cứu tăm tối , lọai những tuần san Thụy Sĩ Arnold tham khảo. Trong khi vài steroids đã đăng tải  nguồn gốc một đường mòn khảo cứu, đa số  các chất ma túy mới chưa bao giờ được thử nghiệm trên con người, mãi cho đến khi  chúng xuất hiện trong các câu lạc bộ hay các tiệc tùng. Khi  những công thức này lọt vào dòng chánh, chúng thường  biến thành virus  xuyên qua các vị trí web  nơi các nhà hóa học và các doanh nhân  mọi màu sắc  trao đổi công thức.
      Cuối cùng ra, những thuốc ma túy này  có thể được các nhà hóa học thuê mướn ở Trung Quốc  sản xuất đại trà ( số lượng lớn ),  quảng cáo trên trang web là “ tổng hợp hửu cơ  thường lệ - custom organic synthesis”   và nhận đặt hàng từ nhóm các  nhà hóa học  vô lại  xuyên quốc gia – transnational   đang trổi dậy.Theo Nathan Messer, chủ tịch  tổ chức bất vụ lợi  Dancesafe, cung cấp thử nghiệm ma túy tại các lễ hội và tiệc tùng,” ở đây có  rất nhiều người khôn ngoan biết cách nào đọc các trang hóa học. Họ thường bắt đầu tự làm và  nếu thành công  họ sẽ kiếm khế ước ở Trung Quốc, thiết lập một dây chuyền phân phối, mua từng khối và bán ra”.

    Ảnh hưởng  của những  thuốc ma túy mới không được điều hành  trên thân thể như thế nào thì điển hình  cũng chưa ai biết rỏ.  Chúng thường được lựa chọn vì các cơ cấu hóa học   giống như  các thuốc ma túy bất hợp pháp, tỉ như MDMA ( thuốc xuất thần, mê ly – ecstasy ), “nhạy cảm – speed”, hay côcain, nhưng cũng đủ khác biệt hầu được xem  là hợp pháp  hay có thể mua bán ở Hoa Kỳ “ như thể  không cho người dùng” với  một thóang tín nhiệm . Vài người bán chúng hy vọng  là phân biệt  này sẽ giúp họ  tránh khỏi một  luật 1970, cho phép chức quyền khởi tố  những thuốc gần như tương tự  các chất bị cấm lưu hành, nếu chúng  chủ tâm cho con người dùng. Đối với các nhà hóa học ngầm, hướng cố gắng  vào thị trường song song cho các thuốc sinh cường hiệu quả, vặn xoắn vài phân tử  hay nung nấu một hợp chất mờ tối, đa số dân gian không biết rỏ hiện diện,   làm cho một chất cấm dùng các nhà thể dục chuyên nghiệp không dò ra được, vì chưng  họ cần một mẩu quy chiếu mới nhận ra nó.  Lọai hóa học phòng bếp này  có những thành quả rất tai hại. Suốt 2 thập niên 1970 và 1980, hàng tá các người sử dụng thuốc đã tiêu thụ nhiều mẻ thuốc làm tại gia lọai thuốc phiện tổng hợp tên gọi là MPPP gây cho chúng những triệu chứng của bệnh run rẫy Parkinson. Nguyên nhân là một sai sót hóa học thú vui thế tục.  pH  trên một phản ứng quá thấp bé nhỏ, khiến cho thuốc  ép ra một  phân tử duy nhất nhỏ của acid propionic, biến nó từ một  chất ma túy uy vũ thành một thuốc độc  để lại phế thải  ở các chất nhận –receptors  dopamine nảo bộ .
    David Nichols, giáo sư khoa dược học Viện đại học Purdue  biết rỏ điều gì sẽ xảy ra, khi khảo cứu các hóa chất  len lõi vào các la bô ngầm.  Ông đã mất hàng chục năm cho chuột ăn LSD , mescaline,  các dẫn xuất MDMA  trong một cố gắng  làm đồ bản các chất nhận của nảo các chất ma túy hành động trên đó. Ông họat động bằng cách vặn xoắn các cơ cấu hóa học  của thuốc, đôi khi thay đổi chỉ vài phân tử  để xem ảnh hưởng là gì  trên tương tác  giữa thuốc và các chất nhận của nảo, các  hợp chất bà con  thường hành động trên đó.
    Thọat tiên Nichols  nhận thức là  các nhà hóa học bậy bạ ( bừa bải ) đã theo dỏi khảo cứu của ông làm cách đây hơn 10 năm rồi, khi một dẫn xuất chất xuất thần- mê ly  tên gọi  là 4- methyl thioamphetamine ( MTA)  xuất hiện tại một câu lạc bộ Âu Châu. Trên một bài bản đã đăng tải, Nichols báo cáo là  chuột thử nghiệm đã được huấn luyện  ấn vào một đòn bẩy  khi được cho  MDMA ,  cũng  đụng vào nút khi  cho MTA.  Điều này tuồng như đã đủ  gây chú ý  nhà hóa học bậy bạ đang tổng hợp thuốc  tái mệnh danh nó là  flatliners  và bán nó ở Hòa Lan.  Lựa chọn tên này  là một báo hiệu  bệnh họan.  Đến năm 2002, flatliners đã giết chết ít nhất là 6 người. Nichols tin rằng họ chết vì dùng quá liều   serotonin, một chất phát truyền dây thần kinh, có thể đưa tới giảm nhiệt nguy hiểm – hypothermia , bắp thịt  suy nhược,  và  lên cơn động kinh. Thật ra flatliners không  giải tỏa dopamine  và norepinephrine phần lớn tạo ra ảnh hưởng sảng khóai của  ngất ngư -mê ly. Nhưng như chất làm xuất thần mê ly, nó giải tỏa ra những nồng lượng lớn  serotonin,  và  can thiệp vào các cố gắng làm suy nhược thân thể. Tuồng như đúng là những phản ứng Nichols ghi trên chuột, khiến chuột nhận thức ra, chạy lẹ đến serotonin do MDMA gây nên. Nichols  tin rằng  khi một lượng đầu tiên  của flatliners  thất bại  không sản xuất được sảng khóai như  xuất thần mê ly, các người dùng ma túy  mong chờ, họ tăng thêm nồng lượng và tăng mãi  cho đến  khi thuốc giết chết họ.
     Dù chết chóc bi thảm mấy đi nữa,  Nichols lại lo âu về điều gì sẽ xảy ra  khi các hợp chất ngầm gây ra các biến chứng ít rỏ rệt hơn và khá lâu hơn mới phô bày ra.  Ông nói: đây là lo sợ lớn nhất của tôi. Hãy giả thiết là ai đó  đang chế tạo một thứ gì như thể thuốc xuất thần- mê ly ?  Và đó là một  thành công lớn cho họ. Nhưng  không biết được cách gì thuốc phản ứng trên phần còn lại của thân thể. Hãy giả thiết là nó giết chết tế bào lá lách – pancreas hay một bộ phận nào khác ?  Và giả thiết  là dân gian dùng thuốc này mỗi cuối tuần ? nếu một cặp  nào đó chết thì vẫn  gần như không giống  thảm kịch, khi cả  trăm ngàn người bổng nhiên cần phải cấy tim.
     Mike Cole,  nhà khoa học ngành pháp y ở viện  Anglia Ruskin, Cambridge, Anh Quốc đã làm khảo cứu cho thấy là  Nichols đúng lý lo âu vấn đề.  Cole  đã nghiên cứu  một lọai thuốc phát triễn  chống lại sâu ký sinh trùng ở ngành chăn nuôi súc vật. Nay thuốc đã được sản xuất khối lượng lớn ở Đông Á  và được  rao bán   tại các buổi tiệc tùng Cựu Kim Sơn – San Francisco  và vài nơi khác   như thể là một thay thế “ hợp pháp”  và “an tòan” cho thuốc xuất thần – mê ly.  Tên thuốc là  benzylpiperazine,  chế tạo ra không khó khăn gì mấy. Chỉ cần một nhà hóa học khởi động một phản ứng giữa hai hóa chất trong một chai lọ -flasks làm nguội chúng  cho đến khi  các hợp chất phối hợp thành các tinh thể  và  thuốc  kết tủa  ra ngòai .
    Nhưng thuốc kết tủa, Cole đã chứng minh ở la bô, có thể rất độc hại cho thận.  Cole nói: “ nếu bạn gíup việc cho một  công ty hóa học, , bạn sẽ phải làm sạch  cho sản phẩm cuối cùng. Nhưng các kẻ ngòai đường phố  không lý gì đến điều này cả . Chúng đang cố tâm làm lời tối đa  và bạn có thể  phải chịu những ảnh hưởng độc hại, khi không  thực hiện tiến trình  làm sạch sản phẩm. Trong khi đó, rất nhiều steroids xây dựng thân thể lực lưỡng đã cho thấy là gây ra các rối lọan  gan và thận  và  đàn ông không sinh con được.   Những biến chứng này xảy ra  tùy thuộc  về sức mạnh và liều lượng  tiêu thụ các hợp chất, và ai ít biết  rỏ các lọai sreroids này thì lại càng khó dùng  cho đúng liều lượng. Ảnh hưởng sau nhiều năm dùng các ma túy mới này  cũng rất khó qui định.  Theo  Charles Yesalis, giáo sư danh dự Viện đại học Penn State,  một chuyên viên sáng giá  nhất về steroids, chúng ta chưa làm nghiên cứu tính cách  dịch tể  ảnh hưởng dài hạn. Và nếu chúng ta  không biết các ảnh hưởng dài hạn  của những thuốc  “đã biết” của những công ty dược phẩm  thì chắc chắn là chúng  ta sẽ  không biết các ảnh hưởng  của các thuốc “chưa biết”.

       Tiếp tục câu chuyện  Patrick Arnold   ...
     Một tuần sau  khi Arnold dùng nồng độ đầu tiên mestanolone  lỏng, đời sống hắn thay hay đổi hẳn.  Số lượng hắn dùng tăng mãi  đến  gần 15 ki lô. Chẳng bao lâu áo quần hắn chật ních, và bắp thịt hắn phồng to lên cao, trỗ nhiều gân xanh mới. Biến đổi lý học này không còn dấu diếm được nữa, ai cũng thấy, nhưng hắn bất cần. Arnold  trở về lại bang Connecticut và  học cao học Hóa học ở viện đại học tiểu bang. Hắn cũng gia nhập  nhóm bàn cải trên Internet về thể dục sung sức và cử tạ. Dân gian bắt đầu  tìm kiếm các  lời  hắn khuyên răn. Nhất là tay  xây dựng thân thể Dan Duchaine, tác giả  Sách  Sổ tay Hướng dẫn Steroids Ngầm -  The Underground  Steroids Handbook .  Duchaine đã bị ở tù 2 năm, vì buôn bán steroids.  Duchaine giới thiệu Arnold với  Ramlakhan Boodram, một doanh nhân xứ Trinidad, có nghiệp chế biến đậu nành và nông cơ ở thị trấn Champaign, bang Illinois  và chế tạo các bổ sung  dinh dưỡng cho bạn Duchaine. Arnold di chuyễn về miền Trung Tây Hoa Kỳ,  thiết lập một la bô đồng trồng bắp ( ngô ), cố tụ điểm trên một môn bài hắn tham khảo qua các  trích yếu hóa học. Môn bài  đến từ một công ty dược phẩm  Đông Đức  tên gọi là Jenapharm , sản xuất đa số các hợp chất steroidal, dùng làm chương trình quốc gia kích thích – ma túy cho các lực sĩ quốc gia nguyên là Cọng sản này. Môn bài Jenapharm là hợp chất androstenedione, môt tiền chất tự nhiên  của testosterone các tuyến thượng thận – adrenal glands , nghĩa là ngọc hòan ( hòn dái ) và buồng trứng sản xuất ra.  Andro tổng hợp đã được sử dụng rộng rải như là môt tiền chất steroids ở các la bô.  Môn bài lưu ý  là nếu nuốt hormon này, chính các enzymes của thân thể  sẽ xúc tác các  phản ứng chuyễn hóa  andro thành  testosterone , trên lý thuyết  cung cấp  các lợi lộc   sinh cường hiệu năng - performance  enhancing, tương tự các steroids  xuất dẫn  từ chất này ở la bô.
     Khi Andro Arnold  bán ra thị trường, uy vũ  của Andro  lan tràn mau lẹ ở cộng đồng các lực sĩ,  và danh tiếng Arnold nổi lên như cồn. Arnold đã lợi dụng danh vang này để kiếm tiền. Hắn tham khảo lại các tạp chí, rà dò các trích yếu làm các chuyễn hóa  xảy ra tự nhiên, có cơ biến thành  testosterone khi nuốt vào họng. Hắn sản xuất ra được nhiều tiền hormon. Năm 2003, hắn  và đồng bọn thiết lập một la bô khảo cứu tân kỳ lớn, có máy  phép sắc ký khí – gas chromatograph và nhiều  khí cụ phân tích khác. Năm 2004, lợi tức la bô lên đến 12 triệu đô la Mỹ một năm.             
        Arnold tiếp tục thử nghiệm bí mật các chất steroids bất hợp pháp.  Hắn trở về New Jersey  và làm ra được  một  steroid đồng hóa chưa nơi nào biết, một hợp chất công ty  Wyeth Pharmaveuticals ( nay Pfizer đã mua ) đã phát triễn thập niên 1960. Tên là  norbolethone có một cơ cấu độc đáo không thể dò ra được, nhưng đồng thời cũng có nhiều đặc điễm  của những steroids  uy vũ hơn  Arnold đã thử nghiệm.  Khi còn là một   cán sự lương bổng thấp  cho một công ty hóa học, Arnold  sẽ không bao giờ có được  tiền chất tổng hợp quá đắt tiền progestogen tên gọi là levonorgestrel, thành phần tích cực của thuốc ngừa thai uống sáng hôm sau.  Nhưng một hôm nói chuyện với một bạn đồng nghiệp  ở một công bổ sung dinh dưỡng khác, Arnold  nói đến norbolethone  và vụ hắn không mua được  tiền chất.  Sau đó không lâu, một quà tặng đến từ Trung Quốc theo bưu điện  là một gói levonorgestrel. Arnold nung nấu một mẻ  norbolethone, thử đi thử lại   cơ cấu phân tử với các dụng cụ của hắn, và nuốt một liều lượng nhẹ nhàng. Arnold nghĩ rằng  hợp chất có lẽ an tòan. Hắn cho là một nồng lượng  steroid không giết chết ai cả, dù khối lượng có to lớn đi nữa. Trong khi các  thuốc ma túy  có những ảnh hưởng  tức thời không lường được,  đầy kịch tính , steroids  hành động cơ bản là tích cực hóa các gen ( es ), một tiến trình chậm rãi, chỉ dần dần  làm những ảnh hưởng sinh lý hiện ra, dò được.  Arnold tiếp: chỉ khi nào nuốt vào  thường xuyên liên tục, bạn mới thấy xuất hiện những ảnh hưởng xấu. Hắn cũng thấy là nước tiểu hắn vàng đậm đi, làm hắn tin tưởng đó là ảnh hưởng đến gan. Năm 1961, Gordon Hughes  đã sáng chế ra norbolethone  như thể là một phần đề tài tiến sĩ -phD  tại viện Đại học Manchester, Anh Quốc. Hughes phát triễn hợp chất này  để giúp các bệnh nhân đã mỗ xẻ  cần xây đắp thêm protêin, không bao giờ tưởng tượng là ngày nào đó các lực sĩ sẽ dùng nó. Bạn không biết là chúng thuần nhất được bao nhiêu phần. Chúng cũng  chưa được  FDA công nhận.  Bạn không biết gì hết trọi về chúng. Đây cũng là cảm nghĩ của rất nhiều nhà khảo cứu hóa học khác. Giáo sư danh dự  John W.  Huffman, viện đại học  Clemson, cũng đã mất 27 năm trời phát triễn các  chất cùng chức năng  sinh học với THC, thành phần tích cực của cần sa -marijuana.  Huffman hy vọng  hiểu được cách nào THC và các hợp chất tương tác với các chất nhận  nảo bộ, để có thể chửa trị nôn mữa và tăng  nhãn áp – glaucoma.  Năm 2008,  ông được biết là các hóa chất  của ông được thương mãi hóa ở  Đức dưới tên là ma túy –high “ hợp pháp”. Ông thở dài: có nhiều chứng lọan tinh thần- psychosis xuất hiện. Tôi hình dung là  người nào cũng phải chịu trách nhiệm hành vi mình.  Nếu họ dùng chúng, lẽ dĩ nhiên họ phải nhận lấy hậu qủa đau đớn.

        Xì can đan các lực sĩ chóp bu dùng ma túy – steroids…. tổng hợp dễ dàng

Tammy Thomas 
    Đúng như Arnold nghi ngờ, norbolethone quá mờ tối  khiến cho các chương trình ( dò) ma túy chuyên nghiệp  không có mẩu quy chiếu  và như vậy không thể dò ra nó.  Chính Victor  Conte, một doanh nhân táo tợn, đã đẩy xa hơn các giới hạn mờ tối này. Ông  làm chủ một  trung tâm thể thao- dinh dưỡng   ở thị trấn Burlingame , bang Ca Li  có tên là Balco – labô hợp tác xã vùng Vịnh Cựu Kim Sơn. Qua  Balco, Conte  bán các bổ sung hợp pháp  kẽm – magnesium , hiệu quả đáng đặt vấn đề  và chiêu mộ  các lực sĩ  chóp bu  đề xướng các bổ sung. Trong số các lực sỉ siêu sao thực sự phải kể ra Marion Jones, sau đó trở thành nữ lực sĩ  chạy lẹ nhất thế giới và đọat 5 mê day ở một cuộc thi đua Thế Vận Hội và Barry Bonds sau đó phá  kỷ lục ghi bàn ở bóng chày – base ball trong một mùa tranh đua. Ngòai  cung cấp  các thuốc bổ sung  cho các lực sĩ này, Conte cũng cống hiến  những steroids bí mật, bất hợp pháp bên cạnh thuốc bổ sung.

   Arnold gặp Conte ở  nhóm trò chuyện trên Internet, gửi tới Conte  hợp chất mới. Conte  đặt lại tên là “ trong sáng – clear”  và bắt đầu phân phối cho các lực sĩ chóp bu.  Chính Arnold cũng  cung cấp “ trong sáng”    cho  cô đua  đạp xe ở Thế Vận hội Tamy Thomas. Chính vì cô này nuốt  quá nhiều   thuốc khiến cho các chức quyền nghi ngờ điều tra thuốc.  Thomas gạt ra ngòai lời khuyên của Arnold về nồng lượng, theo lời Arnold ,  và đến năm 2002 thì mọc lông trên mặt vì dùng qúa nhiều  norbolethone.  Khi mức testoterone  của cô rớt xuống  xa dưới các mức bình thường, các nhà thử nghiệm  bắt đầu khảo sát  nước tiểu của cô.  Không  bao lâu sau, họ đã xác định được các chất chuyễn hóa dẫn họ tới norbolethone.
      Conte nghe phong phanh là chức quyền đã  kề cận  và yêu cầu Arnold  tìm một hợp chất thay thế.  Arnold liều đánh  cờ bạc  làm một di chuyễn  hiếm có và táo bạo ở ngành hóa học ngầm. Hắn chế tạo một steroids hòan tòan mới mẽ. Hắn tra cứu  Chỉ dẫn Merck Index, một cẩm nang quy chiếu tiêu chuẩn  cho hóa chất, thuốc ma túy  và nhiều hợp chất khác và đọc chương  nói về hạng hormon liên quan  tiền chất  norbolethone. Hắn hy vọng  tìm ra một tiền chất khác có thể biển thành một steroid, sử dụng cùng một tíến trình  phân tử  dùng làm ra norbolethone.
        Arnold gạt bỏ  ra ngòai vài chất vì hắn biết  chúng liên hệ tới danh sách đang bị điều tra.  Vài chất  hắn biết  qua kinh nghiệm có những đặc tính phân tử làm chúng yếu kém .  Rồi hắn đụng tới  tetrahydrodestrinone, một hợp chất chưa bao giờ được dùng trước đó  hầu tạo ra một steroid.  Chất này có  các mối liên kết đôi  - double bonds   chứa ba carbon thay thế nhau , gọi là tiếp hợp – conjugations  hẳn đã thấy  trên các steroids uy vũ, cũng như thêm một carbon nữa hắn nhận thức là sẽ tăng thêm sức mạnh phụ vào. Hắn cho khách hàng  10 milligram một ngày và giảm xuống 5 milligram, khi hắn chắc chắn là hiệu quả. Thế nhưng Conte có nhiều kẻ thù, trong số này phải kể ra Graham, nguyên là ông bầu – coach của  Marion Jones. Tháng 6 năm 2003, Graham gửi một ống tiêm chứa chất mới  cho Cơ Quan Chống Ma Túy Hoa Kỳ. Chức quyền tiến  đến nơi và phô bày  một trong những xì can đan  lớn nhất  trong lịch sử  thể thao. Năm 2005, Cơ Quan Liên Bang khám xét nhà và labô Arnold. Hắn bị kết án 3 tháng tù năm 2006.  Điều tra bị kiện tụng kéo dài mãi đến năm 2010, khi cuối cùng Barry Bonds bị  kết án 30 ngày giam giữ tại gia, vì đã cản trở công lý trong thời gian điều tra.
          
       Ngoại nguồn ngày nay các chất steroids , ma túy tổng hợp  …. là ở Trung Quốc
   
        Don Catlin, thiết lập viên La Bô  Phân tích Thế vận hội  của viện đại học UCLA ở los Angeles, và là người cuối cùng  đa xác định chất “trong sáng”  của Arnold  nói rằng  hiện có hàng trăm  steroids đã biết rỏ và ai đó có thể suốt đời ra công tìm kiếm chúng, thao tác chúng  và biến chúng thành dạng có thể dùng trên con người. Arnold nói là khi thao tác các chất  bổ sung riêng mình, hắn và Boodram  là những biệt lệ  trong ngành công nghệ này. Hầu như ngày nay không còn một ai chế tạo steroids hay các chất bổ sung nữa, vì công việc ngọai nguồn -outsource job đã làm ở Trung Quốc. Trên tư thế  là một  nhà hóa học ngầm  được kinh nễ, vài khi Arnold được  vài người khác trong ngành công nghệ mời  thử các sản phẩm  họ đã làm ra ở các xưởng máy Trung Quốc.  Hắn nói rằng  các xưởng Trung Quốc hay  thay thế các steroids rẽ tiền cho các steroids đắt tiền; đôi khi còn bán các sản phẩm vô nghĩa - crap  mà ngay chính Arnold cũng không tìm ra các đặc điểm ở các dụng cụ phân tích của hắn.   

          Vấn đề tương tự cũng phát hiện cho một làn sóng mới  các chất  hóa chất ma túy tổng hợp đại trà ở ngòai Hoa Kỳ.  Ít nhất là đã có 5 người chết  và hàng tá phải nhập bệnh viện, hợp chất tên gọi là Bromo- Dragonfly ( Rồng Bay ), phát minh lần đầu tiên ở labô Purdue của Nichols và nay chế tạo ở  miền Tây Trung Quốc. Trên một mẽ chết người năm 2009,  một người  ở thành phố San José, Bắc Ca Li chết, sau khi dùng  Bromo chế tạo ở Trung Quốc,  chứa đựng “những dơ bẩn - impurities  tổng hợp không  đặc thù”
Cho nên góp phần vào tính cách độc hại của sản phẩm, chiếu theo trang web Erowid  người dùng  thuốc ngầm.  Kẻ phân phối  nó  đã gửi  thêm nhiều chất mẽ này  đến các người tiêu thụ khác ở Đan Mạch và Y pha Nho, gây ra  ít nhất một người chết khác  và nhiều người phải chở đi bệnh viện. Tháng 5 năm 2011, một nhà chế tạo Trung Quốc gửi đến một sinh viên ỏ bang Oklahoma, một mẽ dán sai nhãn hiệu của Bromo, khi sinh viên này đặt mua một sản phẩm ít uy vũ hơn. Thành quả  là có thêm hai người chết và nhiều nguời khác phải đi bệnh viện, khi họ dùng quá liều.

          Thực tế thay đổi của một thế giới mà khảo cứu  hóa học hợp pháp có thể bị bất cứ ai cướp đi, chỉ cần có một đĩa nóng hổi và một mối nối Internet, đã khiến cho Nichols  phải tái xét tài năng mình.  Ông họat động gần gủi  Cơ quan Cưỡng bức Thuốc Ma túy – Drug Enforcement Agency  để theo dõi các hợp chất mới  và biết rỏ hơn những hậu quả   khảo cứu của ông khi trở nên  công cọng. “  nay khi  tôi  đăng tải, tôi phải  suy tư là liệu chúng có trở thành vấn đề không đây ?   nếu chúng tôi đăng tải một  chất tương tự LSD , 10 lần mạnh hơn LSD , tôi cam đoan là  sau 6 tháng  nó sẽ tràn đầy trên Internet. Nichols tin rằng công trình ông sẽ giúp giải thích trí nhớ , trầm kha, ngay cả tính chất của hồi tỉnh.  Ông nói : khoa học phải tiếp tục và ông không thể ngừng xuất bản. Nhưng nay ông biết là  ai có thể đọc bài ông xuất bản” .
        
         (  Dịch xong ngày 29 tháng 2 năm 2012 ở Irvine, Nam Ca Li – Hoa Kỳ )            

                                           

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét